Thứ Ba, 13 tháng 9, 2016

Nước ngập bủa vây Sài Gòn do tắc tư duy?

Trương Thái Du

VNN - Người ngày một đông, dân sinh xây dựng tự phát như vết dầu loang, lối thoát nước lộ thiên bị lấn lấp, cạn và hẹp dần, cống xả chính không tính hết lưu lượng mưa lớn nhất hoặc không thường xuyên làm sạch rác rến; đó là nguyên nhân xa của "Sài Gòn ngập".

Sài Gòn thời Pháp thuộc có ngập khi mưa lớn hoặc triều cường hay không thì chúng tôi chưa có duyên tiếp xúc với tài liệu hữu quan.

Thập kỷ 1960 bác sĩ Nonnemann đã mô tả hiện trạng trung tâm Sài Gòn (nơi ông sống và làm việc) trong hồi ký "Chúng tôi không hỏi họ từ đâu đến" như sau: "Cung cấp nước, áp suất 0,6 atm; hệ thống điện dao động từ 70 đến 110 Volt; hệ thống thoát nước quá tải vô vọng, nếu như nói chung là chúng tồn tại." Do đó bảo tình trạng ngập úng tràn lan hiện nay tại TP Hồ Chí Minh không có "tiền sử ủ bệnh" và tội lỗi ở hết người đến sau thì e rằng hơi phiến diện.

Thực ra TP HCM là kết quả sáp nhập ba đô thị nhỏ bao gồm Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định mà trung tâm của chúng là những gò đất cao tự nhiên hoặc nhân tạo (nền thành cũ bồi đắp từ thời Nguyễn). Ranh giới của ba đô thị tổ thành ấy phần nhiều là đầm lầy mênh mông, kênh rạch chằng chịt, ruộng lúa thấp trũng thẳng cánh cò bay.

Trải qua quá trình đô thị hóa, di dân chạy nạn chiến tranh trước 1975; những khoảng trống giữa Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định dần dần được lấp đầy, bằng xa lộ mênh mông thẳng tắp như đường Trần Hưng Đạo, Điện Biên Phủ hiện tại, hoặc các đường nối tạm bợ cũng như các khu nhà sàn ổ chuột gá ghép trên mặt kênh rạch. Người ngày một đông, dân sinh xây dựng tự phát như vết dầu loang, lối thoát nước lộ thiên bị lấn lấp, cạn và hẹp dần, cống xả chính không tính hết lưu lượng mưa lớn nhất hoặc không thường xuyên làm sạch rác rến; đó là nguyên nhân xa của "Sài Gòn ngập".

Từ năm 1975 đến trước Đổi mới 1986, cũng rất ít khi nghe nói đến ngập nặng hoặc bị triều cường tấn công ở TP HCM.

Bắt đầu từ những năm 1990, tốc độ beton hóa Sài Gòn tăng chóng mặt, thành phố vươn mình ra khắp bốn phía, bất kể thổ trạch cứng hay mềm, đầm lầy hay gò cao. Nước trời cứ cho là vẫn thế nhưng không còn chỗ thấm, cống rạch ra sông lớn không cải tạo kịp thời khiến cho nhiều vùng thành phố cứ hễ mưa là ngập. Những chỗ trũng lại càng trũng hơn vì nền phù sa bị đè nén bởi hàng triệu triệu tấn xi măng cốt thép, gạch vữa, đá và nhựa trải đường.

Ở Thảo Điền, quận 2 chẳng hạn, trong 10 năm từ 1997 đến 2007 chính tác giả bài viết này đã ghi nhận độ lún lớn nhất là ở Làng Báo Chí, khoảng 5cm - 7cm/năm. Cũng từ dạo ấy nỗi lo triều cường xuất hiện, nước cống đen ngòm hôi thối bị con triều ngoài sông đẩy ngược lên các khu dân cư thấp. Triều cường thường xuyên phá vỡ các bờ bao, các con đê cục bộ dọc bờ sông Sài Gòn, mạn bắc thành phố. Triều cường tàn hại hoa màu, gây ảnh hướng xấu đến sinh hoạt của cộng đồng, làm cho môi trường sống mất vệ sinh trầm trọng.

Tại TP HCM thủy triều hoạt động mạnh nhất, lên cao nhất trong khoảng thời gian Thu phân (23 hoặc 24/9) đến Xuân phân (20 hoặc 21/3) hằng năm. Không may nửa đầu mùa triều tại đây lại trùng với đỉnh điểm mùa mưa nam bộ. Ngày mưa lớn mà gặp triều cường cộng với hồ Dầu Tiếng hay Trị An xả lũ luôn là đại họa với người dân hai bờ sông Sài Gòn, từ quận 12 đến quận 2, từ Thủ Đức đến Bình Thạnh.

Đó là chưa kể biến đổi khí hậu, trái đất nóng lên, nước biển dâng cao, mức triều cường năm sau luôn cao hơn năm trước.

May mắn là từ hơn 10 năm trở lại đây, công nghệ nền móng công nghiệp như khoan cọc nhồi hay ép cọc beton cứng xuyên bùn xuống tầng cát đáy liên tục được cải tiến, chi phí hạ xuống mức độ "phủ sóng" được qua các công trình tư nhân nhỏ. Người Sài Gòn không còn gây nén xuống thảm sa bồi khi làm móng nhà như cách đóng cừ tràm xưa cũ. Độ lún nhiều nơi đã giảm đáng kể dù thời điểm tắt lún có lẽ còn rất xa.


Nguy cơ Sài Gòn chỉ còn một điểm ngập duy nhất là nơi đâu cũng đầy nước đang hiển hiện đằng xa.

Căn cứ trên đặc điểm hình thành và phát triển của Sài Gòn đã nêu, có thể rút ra một số phương án chống ngập như sau:

1. Nâng cao độ đồng bộ những khu vực thấp: Chiều hướng này khó khả thi vì chi phí quá cao, cách quãng trên dưới 10 năm lại phải bù lún, các công trình công cộng và dân sinh hiện hữu chưa có điều kiện cải tạo nâng cấp sẽ trở thành "hang động" giữa thành phố. Do đó chỉ nên áp dụng vào xây dựng mới, hoặc ở những cù lao hẹp, ít nhất ba mặt giáp kênh rạch lớn hoặc sông Sài Gòn, Đồng Nai.

2. Xây bờ bao, hệ thống đê và hồ điều tiết riêng biệt cho từng vùng trũng: Có thể tận dụng những con đường chính có cao độ chuẩn làm đê bao quanh từng khoảnh đất, nơi thấp nhất sẽ nạo vét thêm để biến thành hồ điều tiết. Chi phí chạy hệ thống bơm không lớn lắm nhưng quan trọng hơn cả là đào tạo đội ngũ khai thác có chuyên môn, biết vận hành phù hợp với dự báo thời tiết, con nước và qui trình xả lũ của thủy lợi cũng như thủy điện.

3. Xây dựng đồng bộ hệ thống cống xả chính toàn thành phố, có tầm nhìn ít nhất là nửa thế kỷ. Năng lực thoát nước phải tính đến những cơn mưa to nhất có thể xảy ra trong triều cường lớn.

Đã và đang có rất nhiều phương án chống ngập được thảo luận cũng như áp dụng thí điểm nhưng hiệu quả nhãn tiền chưa cao. Nguy cơ Sài Gòn chỉ còn một điểm ngập duy nhất là nơi đâu cũng đầy nước đang hiển hiện đằng xa.

Chẳng hạn thiết kế cống xả tự đóng khi thủy triều lớn, dùng máy bơm nước thải từ khu dân cư ra ngoài. Giải pháp này sẽ phá sản vài lần trong một năm khi triều cường trùng với mưa to. Hồ điều tiết đang được lên kế hoạch xây dựng trước tiên tại quận 4, quận 2, Tân Bình .v.v. về cảm quan thì hợp lý, nhưng chỉ riêng hồ thôi là không đủ để giải bài toán úng ngập của Sài Gòn.

Phương án chống ngập hợp lý nhất và chắc chắn đem lại hiệu quả nhất nên là sự kết hợp hữu cơ và đồng bộ cả ba cách đã kể trên.

Lấy ví dụ việc nâng cao độ đường An Dương Vương vừa diễn ra đơn phương, không kết hợp với hồ điều tiết, không có hệ thống máy bơm đẩy nước mưa và nước thải đã khiến người dân khổ sở từ khi bắt đầu khởi công. Những người có trách nhiệm đang nhọc nhằn và loay hoay thụ động điều chỉnh. Do không tính kỹ trước khi làm, câu hỏi "vốn ở đâu ra" đang khiến mọi việc lâm vào bế tắc.

Sẽ là một công đôi việc nếu công trình xây dựng đang thực hiện trên bán đảo Thủ Thiêm được chú trọng đúng mức, trở thành sa bàn vừa nghiên cứu vừa thực hành chống ngập cho toàn thành phố trong tương lai.

Bắt đầu bằng Đại lộ Đông Tây xuyên qua Thủ Thiêm, năm 2005 chúng tôi đã mục sở thị đất đắp nền đường cao trung bình từ 1,5m - 2m so với mức triều cường lớn nhất. Các con rạch tự nhiên không bị lấp chặn mà hiện đang được nạo vét, mở rộng và làm sạch. Một vài khu dân cư đã tính đến hồ điều tiết.

Con đường quan trọng dẫn đến Thủ Thiêm là hầm vượt sông Sài Gòn. Bản chất bốn đốt hầm ấy là cấu kiện cứng, liên kết bằng khớp nối mềm, neo xuống đáy sông. Trọng lực hầm cân bằng với lực archimede. Nếu đường hầm không may bị ngập đầy, trọng lượng nước thêm vào sẽ phá vỡ cân bằng, gây ra những tác hại không thể lường trước. Chúng tôi không rõ khu đô thị mới Thủ Thiêm đã có kịch bản xử lý hầm vượt sông Sài Gòn nếu bị nước tấn công toàn diện chưa. Sức tàn phá của nó sẽ gấp hàng ngàn lần việc ngập hầm để xe trong vài chung cư trên đường Phan Xích Long vừa rồi. Thậm chí hầm có thể bị hủy hoại hoàn toàn.

Là một người dân thường đã gắn bó với Sài Gòn hơn 40 năm nay, tôi chỉ cố gắng trình bày trải nghiệm thực tế của bản thân trên cơ sở tham khảo giới hạn một số sách báo, tài liệu liên quan. Chắc chắn cái nhìn của tôi không thể nào sâu sắc và đầy đủ như một nhà chuyên môn được. Có điều tôi luôn lấy làm ngạc nhiên là đa số các bài viết về nguyên nhân và giải pháp chống ngập cho Sài Gòn đều chưa nghiêm túc xem xét thấu đáo việc thành phố đang bị lún rất nặng.

Rất nhiều vùng của TP HCM vốn xây dựng trên nền phù sa non như Thanh Đa Bình Thạnh, Thảo Điền - An Phú - An Khánh quận 2, Phú Mỹ Hưng quận 7 và Nhà Bè bị lún trung bình 1-2m trong 20 năm qua. Ngoài ra toàn thành phố cũng bị lún nhưng nhẹ hơn do khai thác nước ngầm bừa bãi.

Không ít tác giả lý luận rất cảm tính rằng Phú Mỹ Hưng và Nhà Bè là bể chứa nước triều và nước mưa tự nhiên của Sài Gòn, lấp bể chứa xây nhà cửa, chung cư cao ốc, khiến cho Sài Gòn ngập. Trong trường hợp nước mưa, phương pháp định lượng là phải xác định tổng khả năng tiêu nước của toàn bộ hệ thống sông rạch dẫn nước từ Sài Gòn ra biển.

Nếu lượng tiêu nước ấy nhỏ hơn lượng mưa lớn nhất thì mới có thể xét đến vai trò đầm chứa của Phú Mỹ Hưng và Nhà Bè. Hơn nữa Sài Gòn có rất nhiều vùng thấp đã beton hóa, nguyên lý là nước tìm chỗ trũng, chứ không thể nhảy cóc qua mái nhà và yên vị ở phía nam thành phố được. Tương tự như vậy với triều cường, nên tìm hiểu nước biển đi sâu vào đất liền với lưu lượng bao nhiêu theo các nấc triều cao thấp thế nào.

Rất mong nhiều bạn đọc có trải nghiệm khác tôi hãy lên tiếng, việc thảo luận với tinh thần bình đẳng và cầu thị luôn hết sức cần thiết. Các chuyên gia chân chính và những quan chức có trách nhiệm chắc chắn sẽ lắng nghe điều phải trái từ những người dân muốn góp phần xây dựng một thành phố văn minh, sạch sẽ, không ngập lụt